Luật pháp tại Hoa Kỳ được xây dựng như thế nào?

Luật pháp tại Hoa Kỳ được xây dựng như thế nào?Ở Hoa Kỳ, có quan niệm phổ biến rằng, chính quyền được sinh ra để giải quyết các vấn đề của xã hội. Ngay trong Hiến pháp, văn kiện nền tảng cung cấp tính chính danh/chính đáng về sự tồn tại của chính quyền liên bang, đã khẳng định rõ mục đích của việc tạo lập ra chính quyền liên bang là để xây dựng một liên bang hoàn hảo hơn, để thiết lập công lý, tạo dựng phòng thủ chung để chống ngoại xâm, thúc đẩy sự thịnh vượng chung của liên bang và giữ vững nền tự do.
Luật pháp tại Hoa Kỳ được xây dựng như thế nào?
Luật pháp tại Hoa Kỳ được xây dựng như thế nào?

Quan niệm về các đạo luật

Ở Hoa Kỳ, có quan niệm phổ biến rằng, chính quyền được sinh ra để giải quyết các vấn đề của xã hội. Ngay trong Hiến pháp, văn kiện nền tảng cung cấp tính chính danh/chính đáng về sự tồn tại của chính quyền liên bang, đã khẳng định rõ mục đích của việc tạo lập ra chính quyền liên bang là để xây dựng một liên bang hoàn hảo hơn, để thiết lập công lý, tạo dựng phòng thủ chung để chống ngoại xâm, thúc đẩy sự thịnh vượng chung của liên bang và giữ vững nền tự do. Ban hành các đạo luật là một trong những hành vi cơ bản của chính quyền do vậy việc ban hành các đạo luật cũng hướng tới việc đáp ứng các mục tiêu của việc tạo lập chính quyền liên bang như vậy.Chính vì thế, sứ mệnh của các đạo luật ở Hoa Kỳ được xem là công cụ để giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn xã hội, từ thực tiễn quản lý xã hội (nói gọn lại là các vấn đề của xã hội cần phải được nhà nước xử lý). Thêm vào đó, đạo luật chỉ là chọn lựa cuối cùng khi mà các giải pháp khác không đủ sức để giải quyết vấn đề.[1]

Khái quát chung về Quốc hội Hoa Kỳ

Một trong những câu hỏi quan trọng đó là ai là người sản sinh ra các đạo luật (liên bang) ở Hoa Kỳ? Có vẻ, câu trả lời sẽ là khá đơn giản: đó là sản phẩm chung của Quốc hội (lưỡng viện) và Tổng thống. Tất nhiên, đi vào chi tiết hơn, sự phân vai của hai loại chủ thể này (và nhất là những bộ phận bên trong các chủ thể này) như thế nào là nội dung khá phức tạp. Tuy nhiên, với quan niệm đạo luật liên bang là sản phẩm của sự tương tác giữa lập pháp (Quốc hội lưỡng viện) và Hành pháp (Tổng thống), để hiểu được cách thức người Hoa Kỳ làm ra các đạo luật, câu chuyện đầu tiên cần hiểu đó là cách thức tổ chức và vận hành của Quốc hội và Tổng thống.
Hoa Kỳ là quốc gia có tổ chức bộ máy nhà nước chế độ tổng thống (presidential system), lấy tam quyền phân lập làm nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, theo đó, 3 nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) được Hiến pháp trao cho 3 nhánh cơ quan khác nhau thực hiện (nhánh lập pháp – Quốc hội lưỡng viện; nhánh hành pháp – Tổng thống; nhánh tư pháp – hệ thống tòa án). Giữa các nhánh này có sự cân bằng và đối trọng quyền lực. Cách phân chia quyền lực này có từ bản Hiến pháp năm 1787 của Hoa Kỳ và về cơ bản vẫn được giữ nguyên cho tới thời điểm hiện nay mặc dù bản Hiến pháp năm 1787 đã trải qua hơn 20 lần tu chính án.[2]Theo nguyên lý tổ chức quyền lực nhà nước như vậy, cả người đứng đầu ngành hành pháp (đứng đầu Chính phủ) và những người làm trong ngành lập pháp (nghị sỹ) đều do dân bầu trực tiếp (nhận sự ủy nhiệm quyền lực trực tiếp từ dân).[3] Giữa ba quyền có sự kiềm chế, đối trọng nhau nhất định. Về nguyên lý, Quốc hội trong mô hình này nắm quyền xây dựng luật từ A tới Z (tức là từ việc trình dự án luật cho tới việc thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện và thông qua luật) còn Chính phủ (Tổng thống) đóng vai trò thực thi những đạo luật mà Quốc hội đã ban hành. Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 (Khoản 1 Điều 1) quy định rõ “toàn bộ quyền lập pháp … được trao cho Quốc hội Hoa Kỳ”.[4] Tuy nhiên, theo nguyên tắc kiềm chế, đối trọng quyền lực, Tổng thống được quyền phủ quyết (veto) các đạo luật đã được Quốc hội thông qua. Thêm vào đó, thực tiễn hoạt động của mô hình này, ngay tại chính Hoa Kỳ cũng cho thấy, việc xây dựng chính sách làm đường hướng cho việc ban hành luật vẫn là công việc quan trọng hàng đầu của ngành hành pháp.[5]
Mô hình tổng thống chế của Hoa Kỳ đặt gánh nặng lập pháp rất lớn lên vai của Quốc hội lưỡng viện (trong đó có 100 thượng nghị sỹ và 435 hạ nghị sỹ)[6], nhất là trong bối cảnh vai trò của nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo phát triển bền vững ngày càng được coi trọng trong thế kỷ 20 vừa qua. Hệ quả tất yếu là để vận hành được bộ máy Quốc hội liên bang, số lượng nhân lực phục vụ trở nên rất lớn. Các số liệu thống kê cho thấy, nếu như vào năm 1900, các hạ nghị sỹ không có thư ký, nhân viên hỗ trợ riêng. Các thượng nghị sỹ chỉ có trung bình chưa đến 1 thư ký hoặc người giúp việc trên 1 đầu người. Thì con số đó vào năm 1979 (và được duy trì cho tới ngày nay) đã thay đổi rất đáng kể: trung bình mỗi hạ nghị sỹ có 16 nhân viên giúp việc và mỗi thượng nghị sỹ có 36 nhân viên giúp việc. Hiện nay, bên cạnh khoảng 3000 nhân viên giúp việc trực tiếp cho các ủy ban của Quốc hội, cùng với 3000 nhân viên làm việc cho các cơ quan nghiên cứu của Quốc hội (trong đó có Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ[7]), còn khoảng trên 10.000 nhân viên giúp việc trực tiếp cho các hạ nghị sỹ và các thượng nghị sỹ.[8] Mức lương của Nghị sỹ hiện tại là 174.000 USD/năm (riêng với Chủ tịch Hạ viện còn được hưởng 49.500 USD/năm tiền phụ cấp; lãnh đạo phe đa số và lãnh đạo phe thiểu số được hưởng thêm phụ cấp 19.400 USD/năm. Khi nghỉ hưu, mức lương hưu của mỗi nghị sỹ trung bình là 61.000USD/năm. Riêng chủ tịch Hạ viện còn được hưởng 800.000USD/năm tiền chi phí cho việc duy trì văn phòng, nhân viên, điện thoại, thư tín, thuê xe trong 5 năm sau thời điểm nghỉ hưu). Mỗi hạ nghị sỹ còn được hưởng trung bình 1,5 triệu USD/năm để thực hiện việc thuê nhân viên giúp việc (tối đa là 18 người), chi phí cho việc duy trì văn phòng. Mỗi thượng nghị sỹ được bố trí từ 3 đến 5 triệu USD/năm (tùy theo số dân mà thượng nghị sỹ đại diện) cho việc thuê nhân viên giúp việc (khoảng 30 người) và duy trì văn phòng hoạt động. Riêng lãnh đạo các Ủy ban của Nghị viện còn được hưởng mức ngân sách cao hơn để thuê thêm nhân viên giúp việc và duy trì hoạt động của mình. Bên cạnh những lợi ích đó, nghị sỹ còn được hưởng bảo hiểm y tế ở mức cao nhất (miễn phí), khi chết được trả một khoản tiền tuất bằng 1 năm lương cho thân nhân.[9]

Khái quát về quy trình lập pháp ở Hoa Kỳ

Ở Hoa Kỳ, sáng kiến pháp luật có thể đến từ bất cứ đâu (trong đó phía Tổng thống và ngành Hành pháp đóng vai trò rất quan trọng), nhưng quyền trình dự án luật chính thức trước Hạ viện hoặc Thượng viện chỉ thuộc về thành viên của Quốc hội. Tổng thống không có quyền trực tiếp trình Quốc hội dự án Luật, mà chỉ có thể trình gián tiếp thông qua thành viên của Quốc hội (thông thường, Tổng thống chỉ thực hiện việc này khi đã tham vấn rất kỹ với Lãnh đạo Quốc hội).[10] Việc soạn thảo các dự án luật thường do nhân viên giúp việc của các Nghị sỹ thực hiện cùng với sự trợ giúp của những tổ chức, cá nhân thực hiện công việc vận động hành lang, các chuyên gia phân tích chính sách của Quốc hội Hoa Kỳ.
Một dự án luật (do ít nhất một nghị sỹ bảo trợ) muốn được chính thức ban hành thường phải trải qua sự thảo luận, biểu quyết thông qua ở cả Hạ viện và Thượng viện và không bị Tổng thông phủ quyết (veto). Tuy nhiên, từ thời điểm nghị sỹ trình dự thảo luật đến thời điểm dự thảo luật được một viện Quốc hội thông qua là cả một quá trình gian nan. Ít nhất, dự án luật phải trải qua công đoạn nghiên cứu công phu của các ủy ban có liên quan của Quốc hội.
Mỗi năm, gần chục ngàn dự án luật được các nghị sỹ đệ trình trước Lưỡng viện Quốc hội. Tuy nhiên, số dự án luật được chính thức thông qua chỉ vào khoảng 125-400. Ví dụ, năm 2009, trong số hơn 9000 dự án luật được đệ trình, chỉ có 125 dự án luật được chính thức ký bởi Tổng thống để trở thành luật.[11] Điều đó hàm ý rằng, để một dự án luật được «sống sót», các lý do để ngăn chặn sự thông qua của dự án luật, dù là lý do chính trị hay lý do kỹ thuật (như dự luật kém chất lượng, không khả thi v.v.) thường phải được vượt qua. Nói cách khác, để một dự luật được thông qua một cách thành công, sự đầu tư của chủ thể bảo trợ và ủng hộ dự án luật phải rất lớn và công phu, trong đó có sự đầu tư cho việc lý giải về tính cấp thiết của việc ban hành đạo luật, đánh giá những tác động và ích lợi của dự án luật khi thông qua mang lại cho quốc gia v.v. Trên thực tế, những dự án luật do phía hành pháp chuẩn bị, thường có tỷ lệ thông qua khá cao. Tùy sự đầu tư và kỹ năng xây dựng ưu tiên lập pháp của các đời tổng thống mà tỷ lệ dự án luật phía hành pháp sáng kiến, bảo trợ có thể khác nhau, nhưng thông thường, những năm đầu tiên của mỗi nhiệm kỳ tổng thống, tỷ lệ thông qua này có thể lên tới trên 80% (những năm sau đó, có khi tỷ lệ chỉ đạt khoảng trên 40%).[12]
Điều cần lưu ý nữa là, Tổng thống tuy không có quyền trực tiếp đệ trình dự án luật trước lưỡng viện Quốc hội, nhưng với tư cách là lãnh đạo có uy tín hàng đầu trong Đảng của mình, Tổng thống có thể ảnh hưởng rất lớn tới chương trình lập pháp của Quốc hội. Thêm vào đó, với việc thực hiện quyền phủ quyết – một quyền hiến định của Tổng thống, Tổng thống có khả năng phủ quyết những đạo luật mà mình thấy sự thi hành là không khả thi hoặc không đảm bảo tính hợp hiến, không phù hợp với lợi ích quốc gia hoặc việc thực hiện quyền hành pháp của mình. Thực tế cho thấy, khi một dự án luật đã bị Tổng thống phủ quyết, khả năng Quốc hội thảo luận lại để thông qua với số phiếu tối thiểu 2/3 là rất khó khăn. Cụ thể, dưới thời tổng thống Franklin Roosevelt, ông thực hiện 635 lần phủ quyết thì chỉ có 9 lần bị Quốc hội thảo luận lại để thông qua thành công đạo luật đó.[13] Với tổng thống Reagan, ông đã phủ quyết 78 lần nhưng chỉ có 9 lần Quốc hội bỏ phiếu ngược thành công. Với tổng thống Bush (cha), ông phủ quyết 46 lần thì chỉ 1 lần Quốc hội bỏ phiếu ngược thành công. Với tổng thống Clinton, ông phủ quyết 34 lần thì chỉ có 2 lần Quốc hội bỏ phiếu ngược thành công. Với tổng thống Bush (con), trong 10 lần phủ quyết, thì chỉ có 2 lần Quốc hội bỏ phiếu ngược thành công.[14] Những số liệu và dữ liệu kể trên cho thấy rằng, ngay cả trong chính thể Tổng thống, hoạt động lập pháp vẫn đòi hỏi một sự đồng thuận rất cao của cả 2 ngành là ngành lập pháp và hành pháp.

Những bước cơ bản trong quy trình xây dựng một đạo luật liên bang

  1. Khởi thảo ý tưởng xây dựng luật

Ý tưởng xây dựng 1 đạo luật nào đó có thể có bởi bất cứ ai nhưng chỉ nghị sỹ mới có quyền chính thức đề xuất 1 dự luật trước hạ viện hoặc thượng viện.[15] Nghị sỹ có thể đệ trình dự luật bất cứ khi nào người này muốn miễn là Quốc hội đang trong thời kỳ hoạt động. Đạo luật chúng ta nói ở đây là dự luật công – ảnh hưởng tới công chúng nói chung, chứ không phải là dự luật tư chỉ ảnh hưởng tới một cá nhân hoặc tổ chức cụ thể.
Khi nghị sỹ thấy ý tưởng nào đó có thể xây dựng thành luật, nghị sỹ phải viết ý tưởng đó thành một dự luật và chính thức đệ trình với tư cách là người bảo trợ. Họ thường bảo trợ dự luật quan trọng tới bản thân mình hoặc tới cuộc sống của cử tri mà họ đại diện. Người bảo trợ phải gắng thuyết phục người khác về tầm quan trọng của dự luật mình bảo trợ để dự luật có thể được thông qua. Trong thực tế, có nhiều trường hợp, nhiều nghị sỹ cùng bảo trợ một dự án luật và khi đó họ trở thành người đồng bảo trợ.
Mặc dù ở Hoa Kỳ không có một đơn vị chuyên trách giúp các nghị sỹ soạn thảo các dự án luật trình ra Quốc hội kiểu Văn phòng soạn luật ở Anh và nhiều nước theo hệ thống luật án lệ (common law) khác như Úc, Canada, Singapore, Malaysia v.v. tuy nhiên, có rất nhiều luật sư chuyên hành nghề soạn thảo luật chuyên nghiệp (professional drafters) làm việc tại các cơ quan cung cấp dịch vụ lập pháp thuộc Quốc hội Hoa Kỳ, làm việc cho văn phòng của các vị dân biểu (nghị sỹ), hoặc làm việc cho các cơ quan của chính phủ Hoa Kỳ hoặc các nghiệp đoàn, hiệp hội ở Hoa Kỳ. Họ có kỹ năng soạn thảo luật rất chuyên nghiệp. Khi tiến hành công việc soạn thảo, các luật sư soạn thảo luật chuyên nghiệp phải lưu ý tới những kỹ năng cơ bản như: (1) phải xác định rõ đối tượng hướng tới khi truyền đạt thông tin bằng việc soạn thảo luật; (2) phải thu thập được các cứ liệu thực tế, các bằng chứng thực tế ủng hộ việc xây dựng các quy định của luật; (3) phải nắm rõ được các quy định pháp luật có liên quan (gồm cả luật nội dung, luật thủ tục, luật về cách giải thích quy định pháp luật và các yêu cầu về đạo đức); (4) biết cách phân loại, tổ chức, sắp xếp các nội dung của dự án luật; (5) soạn thảo một cách cẩn trọng (với sự rõ ràng cần thiết, chọn lựa ngôn ngữ phù hợp); (6) kiểm chứng tính khả thi của từng quy định của dự án luật.[16]
Dự luật được đề xuất chính thức bằng cách bỏ vào một cái hộp ở trước cửa phòng họp của Hạ viện (với trường hợp đệ trình dự luật ở thượng viện thì người bảo trợ nộp dự thảo đó cho nhân viên Thư ký Thượng viện hoặc công bố công khai trong phiên họp Thượng viện). Sau đó, dự luật sẽ được đánh số bởi thư ký của Chủ tịch Hạ viện.

  1. Chính thức giới thiệu 1 dự luật

Sau khi chính thức đệ trình, mọi dự luật đều được trải qua phiên đọc đầu tiên (first reading) bằng thủ tục đơn giản là tên của dự luật sẽ được chủ tọa đọc tại phiên họp toàn thể Hạ viện. Sau đó dự luật được Chủ tịch Hạ viện chuyển cho Ủy ban chuyên môn của Hạ viện (Hạ viện có 19 ủy ban như vậy trong khi Thượng viện có 16 ủy ban) để xem xét, hoàn thiện. Lúc này dự luật bước vào giai đoạn ủy ban.

  1. Giai đoạn Ủy ban (và tiểu Ủy ban)

Trong giai đoạn ủy ban này, Ủy ban có quyền xem xét, điều chỉnh nội dung của dự án luật. Mọi việc bổ sung vào dự án luật đều phải được các thành viên ủy ban thảo luận và bỏ phiếu thông qua.
Đây cũng là giai đoạn mà sự tham gia của công chúng vào quá trình xây dựng luật ở Hoa Kỳ được thể hiện rõ nét nhất. Đây cũng là giai đoạn mà sự tham gia của các Bộ/cơ quan bên ngành hành pháp vào quá trình xây dựng luật được thực hiện. Cụ thể, trước khi Ủy ban ra các quyết định liên quan đến số phận của dự án luật, một trong những hành động đầu tiên mà Ủy ban thực hiện đó là gửi bản Dự thảo tới Văn phòng kiểm toán hoạt động của Chính phủ (The Government Accountability Office) để yêu cầu Văn phòng này cung cấp một báo cáo chính thức quan điểm của Văn phòng về tính cần thiết của dự án luật. Ủy ban cũng đồng thời gửi tới các Bộ, cơ quan thuộc ngành Hành pháp để tham vấn ý kiến. Các bộ, cơ quan được tham vấn ý kiến đều phải chuẩn bị ý kiến về Dự án luật. Tuy nhiên, ý kiến của họ được gửi trước cho Văn phòng quản lý và ngân sách của Nhà Trắng (the Office of Management and Budget) để Văn phòng này xem xét xem các bình luận/báo cáo của các Bộ, cơ quan thuộc ngành Hành pháp có phù hợp với đường lối chung của Nhà Trắng (Tổng Thống) không. Nếu không thấy có vấn đề gì, ý kiến của các Bộ, cơ quan thuộc ngành Hành pháp sẽ được gửi sang cho Ủy ban đang xem xét về Dự án luật.[17]
Ủy ban cũng có quyền quyết định sẽ không cho dự luật đi tiếp khi thấy dự luật là không cần thiết hoặc không phù hợp. Đây là thẩm quyền đặc biệt mà các Ủy ban ở các nước theo chính thể đại nghị không có được.
Nếu ủy ban thấy cần tiếp tục ủng hộ dự luật, Ủy ban sẽ gửi dự luật cho một tiểu ủy ban để xem xét chi tiết và kỹ lưỡng hơn. Trong giai đoạn tiểu ủy ban này, Tiểu ủy ban sẽ tiến hành nghiên cứu nội dung dự án luật từ nhiều khía cạnh bằng cách mở các phiên điều trần, mời các chủ thể có liên quan gồm: các chuyên gia, những người chịu sự tác động của dự án luật, những người tán thành và những người phản đối tới để nghe họ trình bày quan điểm. Sau đó Tiểu ủy ban có thể đề xuất hoàn thiện dự án luật hoặc không chấp nhận dự án luật (khi coi dự án luật là không cần thiết hoặc không phù hợp). Nếu Tiểu ủy ban chấp nhận dự án luật, Tiểu ủy ban hoàn thiện (sửa đổi, bổ sung, gia cố thêm) và có báo cáo gửi Ủy ban đầy đủ để bỏ phiếu chấp thuận hay không chấp thuận. Nếu được chấp nhận, Ủy ban phải hoàn thiện Báo cáo về dự án luật, nêu rõ mục đích và các nội dung của Dự án luật để gửi cho toàn thể Hạ viện xem xét.
Một điều khá đặc sắc là, trong giai đoạn Ủy ban xem xét và hoàn thiện dự thảo luật, Ủy ban có quyền buộc tổ chức, cá nhân nhất định phải cung cấp văn bản, tài liệu cần thiết phục vụ các quyết định của Ủy ban liên quan đến đạo luật (quyền ra lệnh subpoena) hoặc buộc cá nhân nhất định phải tham dự phiên điều trần của Ủy ban để cung cấp chứng cứ về các nội dung liên quan tới dự án luật. Việc ra lệnh subpoena do tập thể Ủy ban quyết định (trong phiên họp có đa số thành viên Ủy ban có mặt) hoặc đôi khi cũng có thể ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban quyết định.[18]
Các phiên họp của Ủy ban để thảo luận, cho ý kiến hoàn thiện các dự thảo luật đều phải tổ chức công khai và công chúng được quyền đăng ký tham dự tự do (ngoại trừ Ủy ban ra quyết định chỉ tổ chức phiên họp kín).[19]
Nếu dự án luật có nội dung quan trọng, tác động tới lợi ích của các nhóm đối tượng có liên quan khác nhau, Ủy ban có thể tổ chức các phiên điều trần công khai (public hearings). Khi quyết định tổ chức phiên điều trần này, Chủ tịch Ủy ban phải công bố công khai lịch trình của phiên điều trần trước ít nhất 1 tuần để công chúng và các đối tượng liên quan biết, đăng ký tham dự (trừ trường hợp Ủy ban biểu quyết tập thể quyết định cần tổ chức phiên điều trần sớm hơn).
Phiên điều trần, về nguyên tắc, được tổ chức công khai, ngoại trừ các phiên điều trần mà Ủy ban cho rằng việc tiết lộ các thông tin ở phiên điều trần có thể gây nguy hiểm về an ninh quốc gia hoặc vi phạm luật pháp (thì sẽ được họp kín).
Như vậy, có thể thấy, giai đoạn Ủy ban có mục tiêu làm rõ tính cần thiết, mục đích, ích lợi, tác động tiềm năng và tính khả thi của dự thảo luật. Để tổ chức công việc nghiên cứu, xem xét các dự án luật này, ngoài việc nghiên cứu với sự hỗ trợ của nhiều chuyên gia phân tích chính sách ở Quốc hội, các Ủy ban còn tổ chức các phiên điều trần công khai để tạo điều kiện cho các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án luật có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình về dự án luật. Tuyệt đại đa số dự án luật không «sống sót» qua giai đoạn nghiên cứu của Ủy ban. Kết thúc quá trình nghiên cứu, Ủy ban sẽ ra báo cáo theo một trong các hướng sau: (1) không cho phép dự luật tiếp tục được đưa ra xem xét, (2) cho phép nhưng đề nghị sửa đổi, hoặc (3) cho phép dự án luật đi tiếp và không cần sửa đổi. Nếu đề xuất dự án luật tiếp tục được đưa ra Quốc hội xem xét, báo cáo của Ủy ban phải có đủ các thông tin như: (1) mô tả về nội dung của dự án luật; (2) nêu rõ mục đích của việc ban hành dự án luật; (3) tác động của dự án luật khi được thông qua lên hệ thống pháp luật hiện hành (thay thế, sửa đổi, bổ sung quy định trong văn bản nào); (4) tác động dự kiến của dự án luật lên các đối tượng có liên quan; (5) dự toán chi phí thực thi luật hàng năm và trong 5 năm tới.[20]

  1. Cân nhắc bởi toàn thể hạ viện[21]

Trong giai đoạn này, trước hết hạ viện dành thời gian để thảo luận bản dự thảo luật do Ủy ban đệ trình và báo cáo kèm theo về dự án luật.
Sau phiên thảo luận này, Dự luật được xem xét chi tiết theo từng điều khoản. Sự xem xét này được gọi là Phiên đọc lần 2 (second reading), tại đây, các đề xuất sửa đổi, bổ sung Dự luật được đưa ra. Sau đó Dự luật bước vào phiên đọc thứ ba (third reading) và chuẩn bị bỏ phiếu ở Hạ viện.

  1. Bỏ phiếu ở hạ viện

Dự luật được bỏ phiếu bằng cách nói: đồng ý (yea) (phiếu thuận) hoặc không đồng ý (nay) (phiếu chống) hoặc “tôi có mặt” (present) (tức là bỏ phiếu trắng). Nếu dự luật đạt được đa số phiếu của Hạ viện, Dự luật sẽ được chuyển sang Thượng viện và quy trình xem xét lại bắt đầu từ đầu (tức là trải qua các bước như: chính thức giới thiệu trước thượng viện, chuyển tiếp tới giai đoạn xem xét ở Ủy ban, thảo luận thông qua ở thượng viện). 

  1. Giai đoạn ở thượng viện và việc lập Ủy ban liên hợp

Trong giai đoạn này, Dự luật lại được chuyển cho Ủy ban của thượng viện (và tiểu ban của Thượng viện). Thông thường, kết thúc hoạt động này, với những dự luật được chấp thuận đưa ra bỏ phiếu ở thượng viện, Dự luật sẽ có nội dung và ngôn ngữ thể hiện rất khác với dự luật đã được thông qua ở Hạ viện.
Nếu dự luật được thượng viện thông qua mà khác với dự luật hạ viện đã thông qua, hai viện phải thành lập một ủy ban liên hợp (Conference Committee) mang tính lâm thời để cân nhắc sự khác biệt này, tìm cách đồng thuận hóa nội dung của dự án luật. Ủy ban liên hợp này thường được gọi là “Quốc hội thứ ba” (Third House of Congress) bởi nó đóng vai trò giải quyết những bế tắc, những bất đồng giữa hạ viện và thượng viện trong quá trình xây dựng đạo luật. Ủy ban này sẽ do Chủ tịch Hạ viện và người chủ tọa Thượng viện (Senate presiding officer)[22] thống nhất thành lập, chọn lựa thành viên từ cả hạ viện và thượng viện (thường mỗi viện sẽ cử khoảng 7 đến 11 thành viên tham gia). Ủy ban này tiến hành hoạt động bằng các phiên họp (có thể 1 phiên họp hoặc nhiều phiên họp) và phải xây dựng được báo cáo đề xuất về phương án mà cả lưỡng viện chấp thuận về dự luật. Sau khi báo cáo này được gửi lại cho lưỡng viện và được lưỡng viện chấp thuận thì ủy ban sẽ tự động giải tán.[23] Ủy ban liên hợp hoạt động theo nguyên tắc tập thể và biểu quyết theo đa số. Ủy ban này chỉ cân nhắc những điểm bất đồng của hai viện về dự luật để tìm giải pháp dung hòa. Những điểm đã được cả hai viện chấp thuận thì ủy ban không được xem xét. Nếu trong vòng 10 ngày làm việc kể từ khi lập Ủy ban mà các bên vẫn chưa đạt được bất cứ sự đồng thuận nào liên quan tới giải pháp dung hòa, Ủy ban mới có thể sẽ được thành lập để đảm nhận thay vai trò của Ủy ban lâm thời cũ, nhằm đảm bảo quá trình xây dựng luật thoát được những điểm “nghẽn”.
Cho tới khi, dự luật được đồng thuận của cả Hạ viện và Thượng viện dưới hình thức tuyệt đối giống nhau, dự luật mới được chuyển cho Tổng thống xem xét, quyết định phủ quyết hay ký ban hành.

Quyền của tổng thống trong quy trình xây dựng luật

Sau khi dự luật đã chính thức được cả Hạ viện và Thượng viện thống nhất thông qua, dự luật được chuyển cho tổng thống (lúc này dự luật được gọi là “Enrolled Bill”). Khi này, Tổng thống có 4 chọn lựa ứng xử sau:
– Không có hành động gì trong thời gian Quốc hội vẫn đang họp và có đủ 10 ngày sau đó là đang họp: khi đó dự luật tự động thành luật sau 10 ngày. Đây thường là các đạo luật mà Tổng thống không muốn gắn uy tín cá nhân của mình với nội dung của đạo luật, nhưng cũng không chính thức phản đối nội dung của đạo luật.
– Không có hành động gì trong thời gian Quốc hội vẫn đang họp và không có đủ 10 ngày sau đó là đang họp. Khi đó dự luật sẽ bị coi là bị phủ quyết bỏ túi (pocket veto).Đây là trường hợp Tổng thống không đồng ý với nội dung của đạo luật đã được thông qua nhưng cũng không muốn chính thức lên tiếng phản đối nội dung của đạo luật.
– Tổng thống coi dự luật là không khôn ngoan và không phù hợp, và quyết định ban hành văn bản phủ quyết (veto). Khi này dự luật được chuyển trả lại để Quốc hội xem xét (cùng với văn bản phủ quyết của Tổng thống). Khi này, Quốc hội có thể quyết định không bỏ phiếu chống lại tổng thống hoặc quyết định bỏ phiếu chống. Nếu Quốc hội bỏ phiếu ngược lại Tổng thống (sau khi đã đọc văn bản phủ quyết của Tổng thống) với tỷ lệ ở 2 viện đều đạt từ 2/3 số nghị sỹ có mặt trở lên, dự luật mặc nhiên trở thành luật.
– Tổng thống đồng ý (toàn bộ) nội dung dự luật và chấp thuận ký ban hành. Đây là trường hợp, Tổng thống cũng muốn gắn trách nhiệm và uy tín cá nhân của mình đối với nội dung của đạo luật. Các đạo luật phản ánh chính sách đến từ phía hành pháp thường sẽ được Tổng thống trực tiếp ký ban hành.
Quy định về quyền phủ quyết của tổng thống bắt buộc làm cho các nghị sỹ khi xây dựng và bảo trợ các dự luật của mình phải có sự nhượng bộ với ngành hành pháp để tránh khả năng Tổng thống có thể phủ quyết dự án luật.[24] Trong thực tế, tỷ lệ đạo luật bị Tổng thống phủ quyết cũng không quá lớn, nhưng tỷ lệ dự luật sau khi đã bị phủ quyết mà Quốc hội có thể bỏ phiếu chống lại sự phủ quyết của tổng thống và giành chiến thắng càng hãn hữu. Cụ thể, theo thống kê ở Hoa Kỳ, từ năm 1789 tới nay, tỷ lệ Quốc hội bỏ phiếu chống lại sự phủ quyết của Tổng thống mà đạt được sự đồng thuận từ 2/3 nghị sỹ có mặt trở lên chỉ vào khoảng 4%.[25] Thêm vào đó, khoảng 35% số dự luật này buộc phải có sự thay đổi về mặt nội dung để đáp ứng những quan ngại của Tổng thống. Tình hình phủ quyết của Tổng thống từ năm 1947 tới 2008 cụ thể như sau:[26]

Năm Tổng thống (Đảng) Tổng số phủ quyết (veto) Phủ quyết thường (regular veto) Phủ quyết bỏ túi (pocket veto) Số phủ quyết bị Quốc hội bỏ phiếu chống thành công
1947-1952 Truman (D) 176 126 50 12
1953-1960 Eisenhower (R) 181 73 108 2
1961-1963 Kennedy (D) 21 12 9 0
1963-1968 Johnson (D) 30 16 14 0
1969-1974 Nixon (R) 43 24 19 5
1974-1976 Ford (R) 64 48 16 12
1977-1980 Carter (D) 31 13 18 2
1981-1988 Reagan (R) 78 39 39 9
1989-1992 Bush (R) 46 31 15 1
1993-2000 Clinton (D) 37 36 1 2
2001-2008 Bush (R) 12 12 0 4

Trong thực tế, dự luật bị phủ quyết cũng có thể đơn giản là do nội dung dự luật chuyển cho Tổng thống có sai sót. Chẳng hạn, trong năm 2008, mặc dù Hạ viện và Thượng viện đều đã thông qua một đạo luật về nông trại và gửi cho Tổng thống Bush (con). Do sự bất cẩn, toàn bộ một chương trong đạo luật (có 15 chương) về các khía cạnh thương mại quốc tế trong hoạt động của nông trại đã không được gửi cho Tổng thống. Lấy lý do này, Tổng thống Bush đã phủ quyết dự luật. Dự luật sau đó phải gửi lại về cho Hạ viện và Thượng viện. Hạ viện và Thượng viện đã bỏ phiếu chống lại sự phủ quyết của Tổng thống và đã thắng, sau đó gửi lại dự luật (có đủ 15 chương) cho Tổng thống. Tổng thống phủ quyết một lần nữa và trả lại dự luật cho Hạ viện và Thượng viện. Hạ viện và Thượng viện phải bỏ phiếu một lần nữa để chống lại sự phủ quyết của Tổng thống và kết cục là Dự luật đã được chính thức thông qua.[27]
Sơ đồ tổng quát về quy trình xây dựng Luật ở Hoa Kỳ cụ thể như sau:[28]
Nguyễn Văn Cương – Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp
[1] Susan L. Brody, et. al, Legal Drafting (Aspen Law, 1994) at 359-372.
[2] Mặc dù vậy, sự biệt lập hoàn toàn giữa 3 quyền này là điều không có thực. Xem GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, “Chức năng giám sát của Quốc hội” trong Kỷ yếu Hội thảo Chức năng giám sát của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền (Hà Nội: NXB Lao Động, 2011) tr. 29-30; cũng xem Nguyễn Đăng Dung, Hình thức của các nhà nước đương đại (Hà Nội: NXB Thế Giới, 2004) tr. 338.
[3] Mary Ann Glendon, Michael W. Gordon & Paolo G. Carozza, Comparative Legal Traditions (St. Paul, MN: West Group, 1999) at 59.
[4] Khoa Luật ĐH Quốc gia Hà Nội, Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, (Hà Nội: NXB Hồng Đức, 2012) tr. 524.
[5] Lee H. Hamilton, Strengthening Congress, (Bloomington: Indiana University Press, 2009) at 19. GS. Nguyên Đăng Dung cũng cho rằng, tại Hoa Kỳ, trong thực tế, Tổng Thống cũng là tác giả phần lớn các dự án luật của Quốc hội. Ý tưởng này (tức là Tổng thống cũng có quyền lập pháp) ngày càng trở nên phổ biến, nhất là sau thế chiến thứ Hai./ (Xem Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam (Hà Nội: NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, 2006) tr. 451).
[6] Số lượng này được cố định từ năm 1912. Lúc mới thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, số hạ nghị sỹ mới là 65 người. Một điểm cần lưu ý thêm là từ khoảng thập niên 1950 trở đi, “nghị sỹ” được coi như một “nghề” ở Hoa Kỳ (nhờ mức lương trả cao hơn) và tỷ lệ người tái cử luôn ở mức cao. Trong kỳ bầu cử năm 2000, số hạ nghị sỹ tái cử lên tới 98% trong khi số thượng nghị sỹ tái cử cũng ở mức 79%. (James Q. Wilson, American Government: Brief Version, 10th ed. (Boston, MA: Wadsworth, 2012) at 212).
[7] Riêng Sở nghiên cứu của Thư viện Quốc hội (Congressional Research Service- CRS) đã có khoảng 900 nhân viên, trong đó đa số là các chuyên gia phân tích chính sách và tra cứu, tìm kiếm thông tin để trả lời ngay tức khắc các yêu cầu cung cấp thông tin từ phía các thành viên của Quốc hội. Ngoài ra, Cơ quan kiểm toán của Quốc hội (General Accounting Office) cũng có khoảng 5000 nhân viên, chuyên làm nhiệm vụ kiểm toán các khoản chi của chính quyền liên bang, đánh giá hiệu quả hoạt động của chính quyền liên bang.
[8] James Q. Wilson, American Government: Brief Version, 10th ed. (Boston, MA: Wadsworth, 2012) at 221-222.
[9] Susan Welch, et.al, Understanding American Government, 13th ed. (Boston, MA: Wadsworth, 2012) at 292.
[10] James Q. Wilson, American Government: Brief Version, 10th ed. (Boston, MA: Wadsworth, 2012) at 224.
[11] Susan Welch, et.al, Understanding American Government, 13th ed. (Boston, MA: Wadsworth, 2012) at 303.
[12] Susan Welch, et.al, Understanding American Government, 13th ed. (Boston, MA: Wadsworth, 2012) at 351. Trong năm đầu tiên cầm quyền, tổng thống Obama đã thuyết phục được Quốc hội thông qua 97% đề xuất lập pháp của mình.
[13] Susan Welch, et.al, Understanding American Government, 13th ed. (Boston, MA: Wadsworth, 2012) at 352.
[14] Susan Welch, et.al, Understanding American Government, 13th ed. (Boston, MA: Wadsworth, 2012) at 309.
[15] Bill Scheppler, How a Law is Passed (New York: Infobase Publishing, 2007) at 28.
[16] Susan L. Brody, et. al, Legal Drafting (Aspen Law, 1994) at 359-372.
[17] John V. Sullivan, How Our Laws are Made (U.S. Government Printing Office, 2007) at 11.
[18] John V. Sullivan, How Our Laws are Made (U.S. Government Printing Office, 2007) at 12.
[19] John V. Sullivan, How Our Laws are Made (U.S. Government Printing Office, 2007) at 12.
[20] Bill Scheppler, How a Law is Passed (New York: Infobase Publishing, 2007) at 45-46.
[21] Số thành viên tối thiểu để một phiên họp toàn thể của Hạ viện có giá trị là 218/435; của thượng viện là 51/100; của phiên họp chung lưỡng viện là 100.
[22] Hai người này được xem là người lãnh đạo Đảng chiếm đa số trong mỗi Viện.
[23] Bill Scheppler, How a Law is Passed (New York: Infobase Publishing, 2007) at 73-74.
[24] Steven S. Smith, et. al, The American Congress, 7th ed. (New York: Cambridge University Press, 2011) at 282.
[25] Steven S. Smith, et. al, The American Congress, 7th ed. (New York: Cambridge University Press, 2011) at 282.
[26] Steven S. Smith, et. al, The American Congress, 7th ed. (New York: Cambridge University Press, 2011) at 283.
[27] Steven S. Smith, et. al, The American Congress, 7th ed. (New York: Cambridge University Press, 2011) at 244.
[28] Nguồn: <http://hamptoncivics.wikispaces.com/Unit+4>
Trang thông tin về kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và hợp nhất VBQPPL – Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (www.ktvb.moj.gov.vn)